CHUYÊN ĐỀ: PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ, THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI SÁNG TẠO

Thứ năm - 22/07/2021 08:49
Báo cáo chuyên đề: Phát triển Khoa học Công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo của TS. Lê Xuân Định, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ
CHUYÊN ĐỀ: PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ,  THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
Chuyên đề
PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ, THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
Bộ Khoa học và Công nghệ
(Tài liệu phục vụ Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cho đội ngũ lãnh đạo Liên hiệp, các hội văn học, nghệ thuật, hội khoa học - kỹ thuật và đại biểu văn nghệ sĩ, trí thức
 
1. Thực trạng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo và đóng góp của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vào phát triển kinh tế - xã hội
1.1. Những kết quả đạt được
Trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, nguồn nhân lực chất lượng cao cùng với khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐMST) trở thành yếu tố đầu vào quan trọng nhất của lực lượng sản xuất hiện đại, là chìa khóa quyết định tốc độ và chất lượng phát triển của các quốc gia và nền kinh tế. Đối với Việt Nam, vai trò của khoa học và công nghệ (KH&CN) trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước luôn được Đảng và Nhà nước ta coi trọng. Nghị quyết Trung ương 6, khóa XI (Nghị quyết số 20-NQ/TW), Kết luận số 50-KL/TW của Ban Bí thư năm 2019 và nhiều văn kiện, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã tái khẳng định KH&CN là quốc sách hàng đầu, là nền tảng động lực phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá đầy đủ và toàn diện đóng góp của KHCN&ĐMST vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn vừa qua.
KH&CN từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế - xã hội. Tiềm lực KH&CN quốc gia được tăng cường. Khoa học xã hội đã đóng góp tích cực, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Một số lĩnh vực khoa học tự nhiên đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Hạ tầng nghiên cứu trong một số lĩnh vực trọng điểm như công nghệ sinh học, hoá dầu, vật liệu, tự động hoá, nano, công nghệ tính toán, y học… được tăng cường. Hệ tri thức Việt số hoá được hình thành và phát triển. Hoạt động xúc tiến, hỗ trợ tìm kiếm, trao đổi, chuyển giao công nghệ được đẩy mạnh. Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia đi vào hoạt động đã phát huy hiệu quả trong việc tài trợ cho các hoạt động nghiên cứu cơ bản, góp phần gia tăng số lượng các công bố quốc tế.
Hệ thống bảo hộ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ ngày càng hoàn thiện, phù hợp với cam kết quốc tế, phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo. Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia ngày càng được xây dựng và hoàn thiện, hài hoà với tiêu chuẩn quốc tế. Cơ sở dữ liệu về công nghệ và chuyên gia bước đầu hình thành. Các khu công nghệ cao đã góp phần thu hút các dự án ứng dụng công nghệ cao của các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia được hình thành và có những bước phát triển nhanh chóng, tạo ra một thế hệ doanh nghiệp mới kinh doanh dựa trên tài sản trí tuệ và có tiềm năng tiếp cận thị trường toàn cầu.
Những đóng góp quan trọng của KHCN&ĐMST trong thành tựu phát triển chung của đất nước giai đoạn vừa qua được thể hiện qua các kết quả nổi bật sau:
(1) Lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đã đóng góp vào xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách, trực tiếp nhất là Dự thảo Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng; thực hiện các chương trình, nhiệm vụ khoa học lớn như: Đề án Nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam; xây dựng bộ Địa chí quốc gia Việt Nam; phục vụ nghiên cứu các xu thế mới của thế giới như Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xã hội 5.0...
(2) Khoa học cơ bản đạt được nhiều thành tựu thể hiện qua các chỉ số xếp hạng, công bố nghiên cứu quốc tế. Số lượng bài báo công bố quốc tế ISI của Việt Nam trong giai đoạn 2016 - 2020 tăng trung bình 20%. Riêng trong năm 2020, công bố quốc tế của Việt Nam tăng 45% so với năm 2019. Một số lĩnh vực khoa học tự nhiên như: Toán học, Vật lý, Hóa học tiếp tục giữ thứ hạng cao trong khu vực ASEAN.
(3) Khoa học công nghệ ứng dụng thể hiện qua trình độ công nghệ có những bước tiến rõ nét. Chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011 - 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 - 2020 (vượt mục tiêu 35%); KH&CN ngày càng đóng góp nhiều vào giá trị gia tăng của sản phẩm hàng hóa (trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi). Hoạt động KH&CN liên tục đổi mới, đẩy mạnh, tham gia trong tất cả các khâu trong quá trình sản xuất của các ngành lĩnh vực như y tế, nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, xây dựng, an ninh, quốc phòng…
(4) Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016 - 2020 là 5,8%/năm (cao hơn mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011 - 2015);
(5) Tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020;
(6) Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam (GII) trong những năm gần đây liên tục tăng vượt bậc, năm 2020 xếp thứ 42/131 quốc gia, dẫn đầu nhóm quốc gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 trong ASEAN sau Singapore và Malaysia;
(7) Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam bắt đầu được hình thành và phát triển. Hiện nay có khoảng hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam. Số lượng vốn được công bố đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đạt xấp xỉ 1 tỷ đô-la Mỹ liên tiếp trong 2 năm gần đây, tăng gấp 3 lần so với năm 2017, đưa Việt Nam trở thành quốc gia năng động thứ 3 Đông Nam Á về khởi nghiệp sáng tạo.
(8) Nguồn lực tài chính từ xã hội cho KH&CN tăng mạnh. Tỷ trọng đầu tư giữa Nhà nước và doanh nghiệp được cải thiện theo chiều hướng tích cực. Nếu như 10 năm trước đây kinh phí hoạt động KH&CN chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước (chiếm khoảng 70-80% tổng đầu tư cho KH&CN), thì đến nay đầu tư cho KH&CN từ ngân sách nhà nước và từ doanh nghiệp đã tương đối cân bằng với tỷ lệ tương ứng là 52% và 48%.
(9) Nghiên cứu KH&CN đã có nhiều đóng góp tích cực trong hoạt động phòng chống dịch bệnh Covid-19 (đầu tư nghiên cứu khoa học và công nghệ trong một thời gian dài là nền tảng để các tổ chức nghiên cứu phát triển nhanh các sản phẩm như Test Kit, Vacxin, Robot tự hành, công nghệ truy vết...
(10) Hệ thống các tổ chức KH&CN phát triển mạnh, đội ngũ nhân lực KH&CN phát triển cả về số lượng và chất lượng với khoảng 72.990 cán bộ nghiên cứu tương đương toàn thời gian (đạt 7,6 người/vạn dân), trong đó nhiều nhà khoa học có uy tín, được thế giới công nhận. Hệ thống sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng ngày càng hoàn thiện góp phần khuyến khích hoạt động nghiên cứu sáng tạo trong nước, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa.
(11) Đóng góp của KHCN&ĐMST trong các ngành:
Trong nông nghiệp, KH&CN đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, góp phần đưa Việt Nam vào nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà phê, h tiêu, cao su, điều nhân.
Trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông, hoạt động KHCN&ĐMST tiếp tục góp phần hỗ trợ phát triển sản phẩm của doanh nghiệp theo chuỗi giá trị để tạo ra sản phẩm, hàng hóa mang nhãn hiệu Việt Nam có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao trên thị trường; nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa; giải quyết được bài toán thay thế nhập khẩu, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá, làm chủ công nghệ trong các lĩnh vực cơ khí chế tạo, thiết bị điện, công nghiệp hỗ trợ,…
Trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, nhiều công nghệ và kỹ thuật tiên tiến đã được áp dụng trong chẩn đoán và điều trị, giúp nâng cao rõ rệt chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, giảm chi phí cho người dân và xã hội. Dù là nước đang phát triển, Việt Nam đã nằm trong tốp 3 nước ASEAN và 43 nước trên thế giới tự sản xuất được vắc xin, rất thành công trong công tác phòng ngừa và thanh toán các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm; làm chủ được các kỹ thuật và công nghệ y học hiện đại ở trình độ cao như ghép tạng và đa tạng,… Đặc biệt, trong đại dịch Covid-19, chúng ta đã kịp thời đặt hàng nghiên cứu, phát triển kit xét nghiệm nhanh, hỗ trợ truy vết người tiếp xúc, thiết kế, sản xuất robot, máy thở, phác đồ điều trị và kháng thể đơn dòng để sản xuất thuốc đặc hiệu điều trị Covid-19, sản xuất vacxin.
Trong quốc phòng và an ninh quốc gia, đã thiết kế, chế tạo mới và cải tiến được nhiều loại vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao; xây dựng được các hệ thống giám sát và kiểm soát an toàn, an ninh thông tin trên không gian mạng. 85% vũ khí trang bị kỹ thuật của Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng có nguồn gốc từ kết quả nghiên cứu trong nước, đáp ứng các yêu cầu tác chiến.
1.2. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù có những đóng góp trong tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội nhưng thực trạng hoạt động KHCN&ĐMST còn có một số hạn chế như sau:
KH&CN chưa thực sự trở thành động lực và nền tảng cho phát triển KT-XH, cho tăng trưởng, tái cơ cấu kinh tế và tăng năng suất lao động xã hội. Nhiều quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và địa phương chưa dựa trên cơ sở khoa học chuyên sâu, dẫn đến đầu tư dàn trải, thiếu tính khả thi. Một số nhiệm vụ nghiên cứu chưa bám sát yêu cầu sản xuất và đời sống.
Trình độ KH&CN quốc gia nhìn chung còn khoảng cách so với nhóm đầu khu vực Đông Nam Á. Trừ một số lĩnh vực có tốc độ đổi mới công nghệ khá nhanh như công nghệ thông tin - viễn thông, dầu khí, hàng không, tài chính - ngân hàng,… nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất vẫn đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới. Năng lực hấp thụ công nghệ, đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế. Năng lực nghiên cứu ứng dụng của các viện nghiên cứu, trường đại học còn khiêm tốn.
Hành lang pháp lý và cơ chế, chính sách còn thiếu đồng bộ, chưa thực sự tạo động lực cho phát triển KH&CN và ứng dụng kết quả KH&CN vào sản xuất. Đặc biệt là các chính sách kinh tế (chính sách đầu tư, thuế, đấu thầu,…) đang cản trở sự hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp.
Đầu tư cho KH&CN còn hạn chế; tỷ lệ chi cho KH&CN trên GDP chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế của đất nước. Đội ngũ cán bộ KH&CN tuy có tăng về số lượng nhưng chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thiếu các tập thể khoa học mạnh, các chuyên gia đầu ngành có khả năng dẫn dắt các hướng nghiên cứu mới hoặc chỉ đạo triển khai các nhiệm vụ quốc gia ở trình độ quốc tế. Hiệu quả hoạt động của các tổ chức KH&CN công lập chưa cao. Hợp tác quốc tế chưa đi vào chiều sâu, thiếu trọng tâm, chưa chú trọng đến chuyển giao, tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị cho hoạt động KH&CN còn thiếu và chưa đồng bộ. Ở các địa phương, ngân sách đầu tư phát triển cho KH&CN còn được phân bổ, sử dụng chưa đúng mục đích; máy móc, trang thiết bị của các trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN, trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng còn nghèo nàn và lạc hậu, chưa được đầu tư, mua sắm kịp thời và đồng bộ. 
- Cơ chế, chính sách chưa tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các sản phẩm KH&CN trong nước và nước ngoài được trao đổi, mua bán trên thị trường. Còn thiếu những cơ chế, chính sách thực sự khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới, nhập khẩu công nghệ, nhất là đối với những ngành, lĩnh vực chủ lực, mũi nhọn để nhanh chóng ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh tạo ra sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao. Nhìn chung, các trung tâm dịch vụ KH&CN còn chưa thực sự phát huy hiệu quả trong việc thúc đẩy dịch vụ môi giới, chuyển giao, tư vấn, đánh giá, định giá, thẩm định, giám định công nghệ.
- Hệ thống ĐMST quốc gia ở Việt Nam đang trong quá trình hình thành, các thành tố và các mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống ĐMST quốc gia đang từng bước hoàn thiện và còn mờ nhạt. Hoạt động NC&PT trong khu vực doanh nghiệp còn hạn chế. Năng lực áp dụng và hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp còn rất thấp. Hoạt động đào tạo trong các trường đại học còn thiếu sự gắn kết với nghiên cứu khoa học. Thiếu gắn kết hiệu quả giữa các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp.
- Chưa thiết kế được nhiều nhiệm vụ KH&CN có tầm vóc và phạm vi tác động sâu rộng liên ngành do đó mục tiêu cụ thể của một số chương trình KH&CN còn chưa đạt được như kỳ vọng, chưa tạo được kết quả, sản phẩm KH&CN thực sự mang tính đột phá.
- Trình độ công nghệ nước ta còn thấp, hoạt động đổi mới, ứng dụng và làm chủ công nghệ của các doanh nghiệp chưa tích cực và hiệu quả.
Những vấn đề nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
(i) Về việc hỗ trợ từ phía cơ quan quản lý liên quan:
- Còn có khoảng cách giữa nhận thức và hành động của các cấp, các ngành về vai trò của KH&CN dẫn tới các khó khăn trong tổ chức thực hiện, đưa pháp luật, cơ chế, chính sách trong lĩnh vực KH&CN vào cuộc sống. Nhìn chung, nhận thức của các cấp, các ngành và các địa phương về vai trò của KHCN&ĐMST còn chưa đầy đủ, toàn diện.
- Xã hội và các cơ quan quản lý tài chính chưa hiểu rõ đặc thù của hoạt động KH&CN, chưa chấp nhận rủi ro và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, dẫn tới các khó khăn trong đánh giá hiệu quả nhiệm vụ KH&CN. Đặc thù của khoa học là quá trình thử và sai, có độ trễ (đôi khi tính bằng thập kỷ) để kết quả KH&CN được ứng dụng thành công và mang lại giá trị gia tăng.
- Hệ thống các tổ chức trung gian hỗ trợ giải mã, hoàn thiện công nghệ, thí nghiệm, thiết kế và phát triển sản phẩm, định giá công nghệ và tài sản trí tuệ còn thiếu và chưa phát triển;
- Thông tin, cơ sở dữ liệu, tài liệu về công nghệ, sáng chế, kết quả nghiên cứu chưa được quan tâm phổ biến tới doanh nghiệp.
(ii) Về phía doanh nghiệp:
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp khó tiếp cận được các nguồn vốn, tín dụng để tiến hành đổi mới công nghệ do vướng mắc về điều kiện tài sản bảo đảm, số năm kinh nghiệm hoạt động,…;
 - Nhiều doanh nghiệp chưa có tầm nhìn dài hạn về việc cải tiến, đổi mới công nghệ để phát triển bền vững; Các nỗ lực đổi mới công nghệ tại doanh nghiệp còn mang tính nhỏ lẻ, thiếu hệ thống.
(iii) Về cơ chế, chính sách:
- Vướng mắc trong quy định dẫn tới Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của các doanh nghiệp chưa được sử dụng để đầu tư, đổi mới, ứng dụng công nghệ, hỗ trợ đổi mới sáng tạo;
- Một số cơ chế ưu đãi thuế cho đầu tư nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ còn khó thực thi do có sự chưa đồng bộ trong các quy định pháp luật;
- Chính sách về mua sắm công chưa tạo động lực khuyến khích cho việc sử dụng sản phẩm, dịch vụ là kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới, phát triển công nghệ của doanh nghiệp trong nước;
- Còn thiếu chính sách và các biện pháp hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp đưa sản phẩm là kết quả của nghiên cứu, phát triển, đổi mới công nghệ tiếp cận được với các thị trường tiềm năng;
- Liên kết giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với viện - trường và các cơ quan quản lý nhà nước trong đổi mới, ứng dụng, chuyển giao và phát triển công nghệ còn yếu; chưa có cơ chế khuyến khích sử dụng lực lượng lao động của viện - trường tham gia vào hoạt động đổi mới, cải tiến, phát triển công nghệ tại doanh nghiệp.
2. Nội dung khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030
Nội dung khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đã được chú trọng thể hiện một cách hệ thống và nhất quán trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đặc biệt được thể hiện rõ nét trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021- 2030 đã được thông qua tại Đại hội, nội dung về KHCN&ĐMST được thể hiện đậm nét, đồng bộ, xuyên suốt trong tất cả các phần, từ chủ đề, quan điểm phát triển, mục tiêu chiến lược, các đột phá chiến lược đến phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể như sau:
- Về chủ đề: KHCN&ĐMST được nêu rõ là một cơ sở để huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Chủ đề Chiến lược là: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở KHCN&ĐMST và chuyển đổi số; phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.
- Về quan điểm:
Trong 5 quan điểm của Chiến lược, KHCN&ĐMST được thể hiện như sau: Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào KHCN&ĐMST và chuyển đổi số; chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Hệ thống pháp luật phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới; Xây dựng nền kinh tế tự chủ dựa trên cơ sở làm chủ công nghệ và chủ động, tích cực hội nhập, đa dạng hoá thị trường, nâng cao khả năng thích ứng của nền kinh tế.
- Về mục tiêu chiến lược:
Trong mục tiêu tổng quát, KHCN&ĐMST được khẳng định là cơ sở quan trọng để phát triển kinh tế năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ. Đồng thời, KHCN&ĐMST cũng được thể hiện thông qua các mục tiêu cụ thể như đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng, tốc độ tăng năng suất lao động xã hội, chỉ số phát triển con người (HDI),…
- Về đột phá chiến lược:
KHCN&ĐMST được xác định là một đột phá chiến lược (cùng với: đổi mới thể chế kinh tế; phát triển nguồn nhân lực; phát huy giá trị văn hoá, giá trị con người Việt Nam; phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế, xã hội). Cụ thể là: phát triển mạnh mẽ KHCN&ĐMST và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng, chuyển giao công nghê; nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số công nghệ mới…; lấy doanh nghiệp làm trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ số; phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
- Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp:
+ Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp về KHCN&ĐMST được đặt ở vị trí thứ 2 trong 10 nhóm phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược với tiêu đề là “Phát triển mạnh mẽ KHCN&ĐMST nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”.
+ Các nội dung chủ yếu về KHCN&ĐMST như sau:
  • Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế; cho phép thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới, thúc đẩy triển khai và ứng dụng công nghệ mới, đổi mới sáng tạo, mô hình kinh doanh mới; chú trọng tháo gỡ các rào cản về hệ thống luật pháp và chính sách kinh tế, tài chính đối với hoạt động KHCN&ĐMST.
  • Phát triển mạnh khoa học xã hội và nhân văn.
  • Đổi mới mạnh mẽ cơ chế hoạt động nghiên cứu, quản lý KHCN&ĐMST.
  • Quan tâm đầu tư đúng mức nghiên cứu khoa học cơ bản; tập trung nghiên cứu, ứng dụng công nghệ lõi, công nghệ số; tập trung hỗ trợ triển khai nghiên cứu ứng dụng phát triển công nghệ cho một số ngành và lĩnh vực then chốt.
  • Cơ cấu lại, nâng cao năng lực, hiệu quả các cơ sở nghiên cứu; đẩy mạnh nghiên cứu KH&CN trong các doanh nghiệp, trường đại học, cơ sở đào tạo gắn với nhu cầu thị trường; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hình thành các trung tâm nghiên cứu và triển khai, đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.
  • Cơ cấu lại các chương trình, nhiệm vụ khoa học, công nghệ.
  • Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
  • Phát triển doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp công nghệ cao. Nâng cao hiệu quả hoạt động các cơ sở nghiên cứu, các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, các khu công nghệ cao.
  • Phát triển mạnh thị trường KH&CN gắn với xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học, công nghệ; tăng cường công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ; mở rộng và nâng cao hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế.
  • Đẩy mạnh hội nhập và hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ.
3. Nhiệm vụ trọng tâm phát triển khoa học và công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021 - 2025
Những nội dung KHCN&ĐMST trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nói chung và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 nói riêng là căn cứ quan trọng để ngành KH&CN xây dựng và triển khai các nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn 2021 - 2030. Trước mắt, Bộ KH&CN đang tích cực xây dựng nhiều văn bản như: Chiến lược phát triển KHCN&ĐMST giai đoạn 2021 - 2030; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ; Nghị định quy định cơ chế tự chủ của các tổ chức KH&CN công lập; Đề án quy hoạch tổ chức mạng lưới KH&CN công lập giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050; Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về thúc đẩy doanh nghiệp thành trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo thông qua hoạt động đổi mới, hấp thụ và làm chủ công nghệ;…, trong đó có văn bản quan trọng là Chiến lược phát triển KHCN&ĐMST giai đoạn 2021 - 2030.     
Để KHCN&ĐMST thật sự là lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực nâng cao năng suất lao động chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội thì không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực của ngành KHCN&ĐMST mà còn cần có sự vào cuộc chủ động, tích cực, quyết liệt của cả hệ thống chính trị với sự chung tay, góp sức của tất cả các ngành, các cấp, các địa phương, giới trí thức, doanh nghiệp và toàn xã hội trong ứng dụng và phát triển KHCN&ĐMST.
Những nhóm nhiệm vụ trọng tâm của ngành KH&CN cần được tập trung thực hiện trong giai đoạn 2021 - 2025 bao gồm:
(1) Hoàn thiện hành lang pháp lý và tập trung nguồn lực để thực hiện nội dung đột phá chiến lược về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
- Thực hiện tốt vai trò điều phối của Bộ KH&CN cùng với các bộ, ngành, địa phương trong việc quản lý, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đổi mới sáng tạo trong Viện Nghiên cứu, Trường Đại học và đặc biệt là trong doanh nghiệp. Triển khai đồng bộ, mạnh mẽ các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và ĐMST để tạo động lực nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế.
- Triển khai áp dụng khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo trong một số dự án KH&CN cụ thể hoặc trong một số nhóm đối tượng đặc thù như một số doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trong một số lĩnh vực, viện nghiện cứu, trường đại học,…
- Bảo đảm tỷ lệ chi NSNN tối thiểu 2%, phân bổ và sử dụng có hiệu quả và trọng tâm nguồn lực NSNN cho hoạt động KHCN&ĐMST.
- Khuyến khích nhiều doanh nghiệp thành lập và tăng quy mô các Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, sử dụng Quỹ cho hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ; Triển khai các giải pháp để thúc đẩy, khuyến khích khu vực tư nhân và doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ cho KHCN&ĐMST.
(2) Hoàn thiện hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia trong đó doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm, các Viện nghiên cứu và Đại học là các chủ thể nghiên cứu mạnh
- Đối với các Viện nghiên cứu, Đại học:
(i) Có chính sách khuyến khích chuyển dịch, liên thông lao động trình độ cao giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và khu vực doanh nghiệp. Nghiên cứu xây dựng các quy định phù hợp để các giảng viên, các bộ nghiên cứu ở các trường đại học, viện nghiên cứu dành thời gian nhất định trong năm thực hiện công tác nghiên cứu, cải tiến, đổi mới công nghệ tại doanh nghiệp;
(ii) Xây dựng cơ chế ưu tiên tăng cường tiềm lực, hỗ trợ cho các nhóm nghiên cứu mạnh tham gia nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, tham gia thực hiện nhiệm vụ trong các chương trình KH&CN cấp quốc gia, tham dự hội thảo, hội nghị quốc tế, công bố quốc tế;
(iii) Xây dựng và thực hiện chương trình phát hiện và bồi dưỡng các nhóm nghiên cứu trẻ tiềm năng, ươm tạo doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong các cơ sở giáo dục đại học;
(iv) Xây dựng các quy chuẩn về đạo đức nghề nghiệp trong nghiên cứu khoa học phù hợp thông lệ quốc tế.
- Đối với doanh nghiệp:
(i) Rà soát, sửa đổi các quy định về xét duyệt nhiệm vụ KH&CN theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi để doanh nghiệp tham gia nghiên cứu và ứng dụng kết quả nhiệm vụ KH&CN vào sản xuất - kinh doanh;
(ii) Tiếp tục triển khai các chính sách để phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, biến khởi nghiệp sáng tạo là một trong những động lực đột phá cho đổi mới mô hình tăng trưởng;
(iii) Xây dựng và phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia; đẩy nhanh thành lập các trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia, trước mắt tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh; tăng cường liên kết các mạng lưới đổi mới sáng tạo trong và ngoài nước;
(iv) Có chính sách thúc đẩy khu vực tư nhân, cá nhân và các doanh nghiệp lớn đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo; xây dựng cơ chế hợp tác công - tư trong đầu tư mạo hiểm cho KH, CN & ĐMST;
(v) Triển khai đồng bộ, tổng thể các giải pháp nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp thông qua các hoạt động hỗ trợ về đổi mới, chuyển giao, ứng dụng và làm chủ công nghệ, tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng, khai thác sáng chế và xác lập quyền sở hữu trí tuệ, thông tin về KH&CN…
(3) Tập trung xây dựng năng lực công nghệ cốt lõi thúc đẩy năng suất chất lượng, tận dụng cuộc cách mạnh công nghiệp lần thứ tư
 - Triển khai hiệu quả và đồng bộ, có trọng điểm các chương trình KH&CN cấp quốc gia theo định hướng tái cơ cấu các chương trình KH&CN cấp quc gia giai đoạn 2021- 2025 trong đó doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm, phục vụ thiết thực các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
- Xây dựng, tổ chức thực hiện 1 - 2 chương trình, dự án phát triển công nghệ lớn, có tầm vóc, với sự tham gia của cả khu vực công và tư nhân, có cơ chế thu hút đa dạng nguồn lực (vốn đầu tư phát triển, sự nghiệp KH&CN, sự nghiệp kinh tế, nguồn lực từ doanh nghiệp,…) để tạo đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội (VD: công nghệ lưu trữ năng lượng; công nghệ vật liệu mới;…).
- Đầu tư nguồn lực để tổ chức triển khai thực hiện chiến lược về trí tuệ nhân tạo (AI), chiến lược vũ trụ.
- Phát triển Khu công nghệ cao Hoà Lạc thành trung tâm hỗ trợ nghiên cứu và phát triển công nghệ cao, gắn kết với hoạt động của Viện VKIST để nghiên cứu, thử nghiệm, phát triển công nghệ tiên tiến.
(4) Sửa đổi, hoàn thiện chính sách kinh tế, quy định quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ để thúc đẩy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo
- Tiếp tục tháo gỡ rào cản, vướng mắc từ Quy định sử dụng Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp  để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ cho hoạt động đổi mới, ứng dụng, làm chủ công nghệ, đổi mới sáng tạo.
- Rà soát, hoàn thiện chính sách về đầu tư công để khuyến khích hợp tác công - công, công - tư trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định về xây dựng dự toán, quản lý, sử dụng, thanh quyết toán kinh phí phù hợp với đặc điểm của hoạt động KHCN&ĐMST đặc biệt là tính rủi ro để đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo phương thức khoán chi đến sản phẩm cuối cùng.
- Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc chuyển giao tài sản hình thành trong nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước, chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào đời sống.
- Sửa đổi đồng bộ giữa các quy định của pháp luật về thuế và quy định pháp luật về KH&CN để triển khai có hiệu quả các cơ chế ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp cho đầu tư nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ; Xây dựng cơ chế ưu đãi thuế thu nhập cá nhân cho các đối tượng hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
- Sửa đổi các chính sách về mua sắm công để tạo động lực khuyến khích cho việc sử dụng sản phẩm, dịch vụ là kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới, phát triển công nghệ của doanh nghiệp.
(5) Chuyển đổi số và hiện đại hoá hoạt động quản lý nhà nước về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo
- Chuyển đổi số công tác quản lý nhà nước về KH&CN:
(i) Số hóa nhiệm vụ KH&CN các cấp để công khai minh bạch, đảm bảo xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu về nhiệm vụ KH&CN, phục vụ công tác quản lý nhà nước và nhu cầu tra cứu của nhà khoa học và công dân;
(ii) Phát triển cơ sở dữ liệu về tiềm lực KH&CN (tổ chức, nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất, thông tin), bảo đảm được cập nhật theo thời gian thực.
(iii) Số hóa toàn bộ hoạt động chỉ đạo, điều hành và quản lý hồ sơ, công viêc của Bộ, hồ sơ công viêc được xử lý trên môi trường mạng được kết nối, liên thông và chia sẻ dữ liệu.
- Thực hiện công tác cải cách hành chính đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của Chương trình chuyển đổi số quốc gia và Kế hoạch chuyển đổi số của Bộ, ngành:
(i) Tập trung thực hiện hiệu quả 6 giải pháp trong Chương trình CCHC của Chính phủ;
(ii) Sử dụng công nghệ số để kết nối, hỗ trợ mạng lưới các nhà quản lý, nhà khoa học, viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp từ Trung ương đến địa phương.
- Đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ KH&CN, đẩy mạnh việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh và kiểm tra chuyên ngành; lấy người dân và nhà khoa học làm trung tâm phục vụ; hướng tới cắt giảm thời gian và chi phí giải quyết TTHC một cách thực chất. Tập trung tái cấu trúc quy trình, đơn giản hóa thủ tục hành chính. đối với công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho việc cung cấp thông tin minh bạch, hỗ trợ cho các nhà khoa học trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
 
 

Tác giả bài viết: LP

Tổng số điểm của bài viết là: 6 trong 2 đánh giá

Xếp hạng: 3 - 2 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

  • Đang truy cập31
  • Hôm nay1,461
  • Tháng hiện tại55,825
  • Tổng lượt truy cập1,760,415
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây